A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

NHỮNG ĐIỀU CÂN BIẾT VỀ BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là bệnh lý thường gặp, có thể dự phòng và điều trị được, được đặc trưng bởi triệu chứng hô hấp và giới hạn luồng khí thở dai dẳng do bất thường ở

 

 

1. Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là gì?

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là bệnh lý thường gặp, có thể dự phòng và điều trị được, được đặc trưng bởi triệu chứng hô hấp và giới hạn luồng khí thở dai dẳng do bất thường ở đường dẫn khí và/hoặc phế nang bởi sự phơi nhiễm lâu dài với các hạt và khí độc hại. Các yếu tố nguy cơ của bệnh bao gồm nhóm yếu tố chủ thể và nhóm yếu tố thuộc về môi trường. Thuốc lá là yếu tố nguy cơ quan trọng, cũng như sự tiếp xúc lâu dài với những yêu tố môi trường như nhiên liệu sinh khói và ô nhiễm khí thở. Bên cạnh đó, yếu tố chủ thể cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của bệnh như sự bất thường về di truyền, sự phát triển và sự thoái triển của phổi theo tuổi.

2. Ai có nguy cơ mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính?

Có nhiều yếu tố nguy cơ có thể dẫn đến mắc COPD bao gồm cả các yếu tố thuộc về cơ địa người bệnh và các yếu tố do tiếp xúc thường xuyên với các yếu tố nguy cơ gây bệnh từ môi trường bên ngoài. Trong đó, những người hút thuốc lá, thuốc lào có nguy cơ mắc COPD cao nhất. Khói thuốc lá, thuốc lào kể cả hút chủ động hay thụ động là nguy cơ hàng đầu gây COPD. Nghiên cứu dịch tể học tại Việt Nam cho thấy, tỉ lệ mắc bệnh chung là 4,2%, trong đó ở nam giới là 7,1% và nữ giới là 1,9%.  Các yếu tố nguy cơ khác như người làm việc trong môi trường có nhiều bụi và hóa chất nghề nghiệp với thời gian lâu, cường độ mạnh thì có thể dẫn đến COPD và khi có thêm khói thuốc lá thì tiến triển của bệnh càng nặng hơn.

3. Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính nguy hiểm thế nào?

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là một trong những bệnh hô hấp phổ biến trên thế giới cũng như ở nước ta và có xu hướng ngày càng gia tăng. Hiện nay, COPD là một trong 3 nguyên nhân tử vong hàng đầu trên Thế giới và 90% số ca tử vong này nằm ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ mắc COPD đứng hàng đầu trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Đây là bệnh tiến triển nặng dần, không hồi phục do có những đợt cấp và xuất hiện các biến chứng trầm trọng gây tàn phế và đưa đến tử vong như suy hô hấp mạn tính, suy tim phải. 

4. Làm thế nào để  biết được mình bị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính?

Triệu chứng cơ năng nổi bật nhất của COPD là ho khạc đờm mạn tính và khó thở. Lúc đầu thường ho cách quãng, sau ho cả ngày vào đa số các ngày trong tuần, nếu điển hình có thểho kéo dài đến 3 tháng trong một năm và liên tục từ 2 năm trở lên. Khạc đờm vào buổi sáng, thường xuyên, đờm trong và nhày số lượng ít sau khi ho. Tuy nhiên một số trường hợp có thể không ho, hoặc rất ít ho mà triệu chứng chủ yếu là khó thở từ từ tăng dần, lúc dầu là khó thở khi gắng sức, về sau khó thở xuất hiện cả khi nghỉ. Nếu bạn nằm trong số những người có các yếu tố nguy cơ của COPD và có các triệu chứng như trên, bạn cần đi khám tại các cơ sở y tế để được bác sĩ khám và làm thêm các xét nghiệm như chụp Xquang tim phổi, đo chức năng hô hấp với Test hồi phục phế quản để khẳng định chẩn đoán.

5. Khi nào tôi cần đi viện vì bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính?

Tiến triển tự nhiên của COPD là một quá trình mạn tính và trên nền tảng này có các đợt nặng lên gọi là đợt bùng phát hay đợt cấp. Đặc trưng của đợt cấp COPD là sự thay đổi các triệu chứng của người bệnh như khó thở, ho kèm theo khạc đờm hoặc không, khác với diễn tiến hàng ngày, khởi phát cấp tính và có thể phải thay thuốc điều trị thường ngày. Khi có các biểu hiện như khó thở tăng và/ hoặc ho khạc tăng, đờm đang màu trắng trong chuyển thành trắng đục hoặc đờm có màu xanh, màu vàng, thể tịch đờm tăng, có thể có sốt hoặc không sốt, có đau ngực hoặc không, đặc biệt là người bệnh có thay đổi về ý thức (nói nhảm, ngủ gà, lơ lơ), cần đưa ngay đến cơ sở y tế để được khám, nhập viện điều trị hoặc có thể điều trị ngoại trú tùy theo mức độ đợt cấp. Nhận biết sớm đợt cấp và điều trị kịp thời sẽ là giảm tỷ lệ tử vong, ngăn chặn tình trạng giảm chức năng hô hấp - một trong những nguyên nhân của sự tàn phế và giảm chất lượng cuộc sống của người bệnh.

6. Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính có chữa được không?

COPD là một bệnh mạn tính, có thể điều trị được nhưng không thể điều trị khỏi hoàn toàn. Mục tiêu của điều trị là giảm triệu chứng, đặc biệt trong các đợt cấp của bệnh (đỡ khó thở, đỡ ho khạc đờm, đờm về màu trắng, hết sốt…), duy trì thuốc hít, xịt đều đặn để giảm nguy cơ bệnh tiến triển như giảm tần suất các đợt cấp, giảm tỷ lệ tử vong và tàn phế do bệnh này.

7. Cần làm gì sau khi điều trị ở bệnh viện về nhà?

Điều trị duy trì tại nhà sau khi điều trị ổn định đợt cấp của COPD là một việc làm hết sức quan trọng. Sau khi ra viện, bác sĩ sẽ kê cho bạn sử dụng các loại thuốc uống hoặc thuốc hít, thuốc xịt. Các thuốc này bản chất là các thuốc giãn phế quản có tác dụng kéo dài, có thể kết hợp với thành phần corticoid dạng phun hít hoặc không. Bạn cần duy trì đều đặn và đúng thao tác sử dụng các thuốc này theo hướng dẫn của bác sĩ để đạt hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, bạn nên giữ ấm cơ thể, đeo khẩu trang khi ra ngoài hoặc tiếp xúc với người khác để tránh nguy cơ khởi phát đợt cấp do hít phải khói bụi hoặc nhiễm virus.  Bạn cần tiêm phòng vacxin cúm hàng năm và vacxin phế cầu mỗi 5 năm 1 lần  vì khi tiêm phòng cũng đã được chứng minh giảm nguy cơ đợt cấp của bệnh. Tập thể dục tùy theo tình trạng sức khỏe cụ thể để giảm cảm giác khó thở, tăng khả năng thích nghi với các hoạt động sinh hoạt, lao động hằng ngày, tốt nhất là các bài tập thiền, tập thở kiểu bụng (thở hoành) hoặc Yoga.

Kỹ thuật thở hoành được thực hiện như sau: Ngồi ở tư thế thoải mái, thả lỏng cổ và vai. Đặt một bàn tay lên bụng và đặt bàn tay còn lại lên ngực, sau đó hít vào chậm qua mũi sao cho bàn tay trên bụng có cảm giác bụng phình lên, lồng ngực không di chuyển. Hóp bụng lại và thở ra chậm qua miệng với thời gian thở ra gấp đôi thời gian hít vào và bàn tay trên bụng có cảm giác bụng lõm xuống. Nên tập thở cơ hoành nhiều lần trong ngày cho đến khi trở thành thói quen. Sau khi đã nhuần nhuyễn kỹ thuật thở cơ hoành ở tư thế nằm hoặc ngồi, nên tập thở cơ hoành khi đứng, khi đi bộ và cả khi làm việc nhà.

8. Nếu bạn có cảm giác có đờm nhưng rất khó khạc, vậy bạn phải làm gì?

Đờm là chất tiết từ đường hô hấp thường có ở bệnh nhân COPD, việc tống được đờm ra ngoài góp phần làm sạch và làm thoáng đường thở, giúp người bệnh dễ thở hơn. Ngoài việc uống đủ nước (trung bình khoảng 1,5 lít nước/ngày), sử dụng thuốc khí dung, thuốc long đờm, bạn có thể thực hiện động tác ho có kiểm soát để đạt được hiểu quả tống đờm tốt nhất và tránh bị mệt.

* Kỹ thuật ho có kiểm soát được thực hiện như sau:

- Bước 1: Ngồi trên giường hoặc ghế thư giãn, thoải mái.

- Bước 2: Hít vào chậm và thật sâu.

- Bước 3: Nín thở trong vài giây.

- Bước 4: Ho mạnh hai lần, lần đầu để long đờm, lần sau để đẩy đờm ra ngoài.

- Bước 5: Hít vào chậm và nhẹ nhàng. Thở chúm môi vài lần trước khi lặp lại động tác ho.

Nếu người bệnh mệt, yếu, không thể ho mạnh, có thể thay thế bằng kỹ thuật thở ra mạnh.

* Kỹ thuật thở ra mạnh được thực hiện như sau:

- Bước 1: Hít vào chậm và sâu.

- Bước 2: Nín thở trong vài giây.

- Bước 3: Thở ra mạnh (hóp bụng) và kéo dài.

- Bước 4: Hít vào nhẹ nhàng. Hít thở đều vài lần sau đó cớ thể thực hiện lặp lại.

9. Chế độ dinh dưỡng cho người bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính ra sao?

Khoảng 25 - 40% bệnh nhân COPD có cân nặng thấp hơn bình thường và khoảng 25% sút cân vừa đến nặng. Việc bổ sung dinh dưỡng có vai trò rất quan trọng đến hiệu quả điều trị và chất lượng cuộc sống của người bệnh. Hậu quả của suy dinh dưỡng ở bệnh nhân COPD: làm giảm tính đàn hồi của phổi và chức năng hô hấp; giảm khối lượng, giảm sức cơ của  cơ hô hấp; thay đổi cơ chế miễn dịch tại phổi; dễ nhiễm trùng tại phổi; thiếu đạm, sắt làm giảm nồng độ Hemoglobin trong máu đây là chất có vai trò quan trong trong vận chuyển oxy; thiếu vitamin C ảnh hưởng đến tổng hợp Collagen là thành phần quan trọng của mô liên kết ở phổi.

Vì vậy, bệnh nhân COPD cần được bổ sung đầy đủ các chất dinh dưỡng bao gồm cả đạm, mỡ, đường, tinh bột và các muối khoáng nếu như không bị hạn chế do bệnh đồng mắc khác như suy thận, tăng huyết áp hay đái tháo đường. Tuy nhiên, ở người bệnh có tăng khí Carbonic (CO2) trong máu, không nên ăn quá nhiều thức ăn tinh bột và đường, vì các sản phẩn chuyển hóa của loại thức ăn này có thể làm tăng loại khí này trong máu./.

                        Bs. Trần Văn Thanh - Trưởng Trạm y tế phường Mỹ Thới

 


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Tin tức y tế